NGA LÀ MỘT QUỐC GIA VÀ DÂN TỘC NHƯ THẾ NÀO? P4

 


Với Trung Quốc

BẢNG KÊ LÃNH THỔ TRUNG QUỐC BỊ NGA HOẶC LIÊN XÔ XÂM CHIẾM

Tính từ năm 1689 cho tới năm 1945, Nga và Liên Xô đã xâm chiếm lãnh thổ Trung Quốc có diện tích tổng cộng bằng 5.883.880 km2, tương đương 60% diện tích lãnh thổ lục địa Trung Quốc hiện nay hoặc 1/3 diện tích lục địa Trung Quốc đời nhà Thanh. Cụ thể như sau (tóm dịch):

1) Ngày 7/9/1689 (năm Khang Hy 27), sau khi Trung Quốc-Nga ký Hiệp định Nerchinsk, vùng đất 250 nghìn km2 ở Hưng An Lĩnh và phía tây sông Ergun của Trung Quốc bị mất vào nước Nga.

2) Ngày 21/10/1727 (năm Ung Chính 5) Nga và Trung Quốc ký Hiệp định Qiaketu, vùng lãnh thổ Trung Quốc rộng khoảng 100 nghìn km2 ở phía nam và tây nam hồ Baykal mất vào tay Nga.

3) Năm 1790 (năm Càn Long 55), đảo Sakhalin rộng khoảng 100 nghìn km2 của Trung Quốc bị đế quốc Nga ngầm thôn tính.

4) Năm 1840 (năm Đạo Quang 20), vùng Kazakh rộng khoảng 1 triệu km2 vốn là thuộc quốc [nguyên văn: thuộc bang] của Trung Quốc bị đế quốc Nga sáp nhập.

5) Năm 1840 (năm Đạo Quang 20), vùng Prut rộng khoảng 100 nghìn km2 vốn là thuộc quốc của Trung Quốc bị đế quốc Nga thôn tính.

6) Ngày 28/5/1858 (năm Hàm Phong 8), vùng đất rộng khoảng 460 nghìn km2 nằm ở phía tây sông Hỗn Đồng, phía bắc sông Hắc Long Giang, phía nam Ngoại Hưng An Lĩnh bị đế quốc Nga xâm chiếm, về sau Nga lại ép triều đình Mãn Thanh ký hiệp định Ái Huy thừa nhận việc xâm chiếm đó.

7) Ngày 14/11/1860 (năm Hàm Phong 10) vùng đất rộng khoảng 430 nghìn km2 ở phía đông sông Hỗn Đồng và sông Usuri gần hồ Hưng Khải bị đế quốc Nga xâm chiếm, sau đó lại ép triều đình nhà Thanh ký Hiệp định Bắc Kinh thừa nhận.

8) Sau năm 1864 (năm Đồng Trị 3), vùng đất rộng khoảng 430 nghìn km2 từ Sa Tứ Đạt Ba Cáp đến Song Lĩnh bị đế quốc Nga ép triều đình nhà Thanh ký Hiệp định phân giới Tháp Thành thừa nhận là đất của Nga.

9) Năm 1688 (năm Đồng Trị 7) nước Bố Cáp Nhĩ Hãn Quốc [tiếng Anh: Khanate of Bukhara] rộng khoảng 1 triệu km2 vốn là thuộc bang của Trung Quốc bị đế quốc Nga xâm chiếm.

10) Năm 1876 (năm Quang Tự 2) nước Hạo Hãn Quốc [tiếng Anh: Khanate of Kokand] rộng khoảng 350 nghìn km2 vốn là thuộc bang của Trung Quốc bị đế quốc Nga thôn tính.

11) Năm 1881 (năm Quang Tự 7), vùng đất rộng khoảng 20 nghìn km2 từ Thiên Sơn ở tây nam Ili, núi Na Mạt Cáp Lặc Khắc [Namohalake] đến Khalda ở tây bắc Ili, bị đế quốc Nga chiếm rồi ép nhà Thanh ký hiệp định Ili thừa nhận.

12) Năm 1883 (năm Quang Tự 9), vùng đất rộng khoảng 20 nghìn km2 ở gần sông Ngạch Nhĩ Tề Tư [tiếng Nga là Ôbơ] và hồ Trai Tang, bị đế quốc Nga chiếm rồi ép nhà Thanh ký hiệp định phân giới Khovd delta boundary để thừa nhận việc đó.

13) Năm 1895 (năm Quang Tự 21) vùng Pamir ở Tân Cương, rộng khoảng hơn 10 nghìn km2 bị đế quốc Nga và Anh Quốc xâu xé.

14) Năm 1900, nước Nga dưới triều Sa Hoàng Nicholas II xuất quân xâm chiếm vùng đất rộng 3600 km2 ở Giang Đông, hơn 6000 dân Trung Quốc bị giết.

15) Năm 1921 (năm Dân Quốc 10), Nga xúi giục vùng Tannu Uriankhai tuyên bố độc lập, năm 1944 (năm Dân Quốc 33) Nga chính thức chiếm vùng này, tổng diện tích khoảng 170 nghìn km2 [nay là nước Cộng hòa Tuva thuộc Liên bang Nga].

16) Năm 1929, quân đội Liên Xô xâm nhập vùng Đông Bắc Trung Quốc, tranh giành tuyến đường sắt Trung Đông (Cáp Nhĩ Tân-Đại Liên), đánh bại quân đội Trung Quốc canh giữ ở đây và chiếm đảo Hắc Hạt Tử.

17) Năm 1944, Liên Xô ép vùng Tannu Uriankhai gia nhập Liên Xô và đổi tên là “Nước Cộng hòa XHCN Xô viết Tuva”. Năm 2001, Trung Quốc và Nga ký “Hiệp ước hữu hảo hợp tác thân thiện”, chính thức thừa nhận vùng đất này thuộc lãnh thổ Nga (Điều 6 Hiệp ước), rốt cuộc 170 nghìn km2 đất bị người Nga sở hữu.

18) Năm 1945, Liên Xô thúc ép Anh Mỹ ký Hiệp ước Yalta. [Theo Hiệp ước này] Tháng 10 cùng năm Ngoại Mông Cổ (diện tích 1,566 triệu km2) tổ chức trưng cầu ý dân (quân đội Liên Xô đóng ở đây cũng tham gia bỏ phiếu). Chính phủ Trung Quốc bị buộc phải thừa nhận Mông Cổ “độc lập”.

LIÊN XÔ GIEO MẦM CHO TAI HỌA “ĐÔNG ĐỘT”

Năm 1938, Liên Xô đưa quân đội xâm nhập vùng Cáp Mật [Hami] mưu toan tách Tân Cương với nội địa Trung Quốc. Đồng thời lại dụ dỗ Thịnh Thế Tài [Thượng tướng Lục quân, quan cai trị vùng Tân Cương thời gian 1933-1944] ký [với Liên Xô] “Hiệp ước thuê mượn mỏ thiếc Tân Cương”. Thịnh Thế Tài không nghe. Stalin nổi giận, gây chuyện với Tưởng Giới Thạch muốn dùng Tưởng giết Thịnh, nhưng không thành. Stalin phái đặc nhiệm vào Tân Cương gây phản loạn. Năm 1943, bọn côn đồ được Liên Xô vũ trang chiếm vùng Ili. Liên Xô còn cho máy bay ném bom vùng Địch Hóa, giúp đỡ chính quyền bù nhìn “Nước Cộng hòa Đông Turkistan” [“Đông Đột”].

LIÊN XÔ VÀ NHẬT ÂM MƯU BÁN TRUNG QUỐC

Ngày 13/4/1941, Liên Xô ký kết với Nhật “Hiệp ước Trung lập Nhật-Xô”, vào hùa với Nhật xâu xé Trung Quốc (Liên Xô thừa nhận lợi ích hợp pháp của Nhật tại Mãn Châu, Nhật thừa nhận lợi ích hợp pháp của Liên Xô tại Ngoại Mông Cổ)

HỒNG QUÂN LIÊN XÔ XUẤT QUÂN ĐÁNH VÙNG ĐÔNG BẮC Trung Quốc, LỢI DỤNG CHÁY NHÀ ĐỂ HÔI CỦA

Ngày 6/8/1945 Mỹ ném trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima. Ngày 8 cùng tháng, Liên Xô lâu nay ém quân án binh bất động bỗng dưng xuất quân với thế mãnh hổ xuống núi tiến vào vùng đông bắc Trung Quốc, đánh một đòn tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật, diễn lại mánh khóe cũ [chiếm Berlin trước nhất]. Đây là mưu toan đã tính toán kỹ từ trước nhằm thu “chiến lợi phẩm” từ Trung Quốc.

Toàn bộ các xí nghiệp công nghiệp của Nhật xây dựng tại vùng đông bắc Trung Quốc đều bị Liên Xô tuyên bố là chiến lợi phẩm của Hồng quân. Tất cả các trang thiết bị cơ khí tốt nhất, quan trọng nhất, cái nào có thể tháo dỡ được thì đều tháo dỡ chở hết về Liên Xô. Stalin cho rằng việc để vùng đông bắc Trung Quốc là một căn cứ địa lớn về quân sự và công nghiệp do người Nhật kinh doanh bao năm qua ở gần vùng Viễn Đông nơi lực lượng của Liên Xô yếu nhất, sẽ tạo ra sự đe dọa lớn đối với an ninh của Liên Xô, vì thế việc quân đội Liên Xô chiếm lĩnh vùng đông bắc Trung Quốc chính là cơ hội tốt nhất để giải tỏa sự đe dọa ấy.

Năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc ký “Hiệp ước đồng minh hữu hảo tương trợ Trung Quốc-Liên Xô”, đồng ý để Liên Xô thuê hai quân cảng của Trung Quốc là Lữ Thuận và Đại Liên.

LIÊN XÔ KÉO TRUNG QUỐC VÀO CHIẾN TRƯỜNG TRIỀU TIÊN

Năm 1950 Stalin xúi bẩy Kim Nhật Thành xâm nhập Hàn Quốc, tiếp đó lại dụ dỗ Mao Trạch Đông đưa quân vào Triều Tiên. Mấy trăm nghìn thanh niên Trung Quốc bị chết nơi đất khách quê người, Trung Quốc nợ Nga một khoản nợ quân sự nặng nề. Do gây quan hệ thù địch với Mỹ mà Trung Quốc lỡ mất dịp may nhận viện trợ theo kế hoạch ban đầu của Mỹ. Trung Quốc trở thành quốc gia bế quan tỏa cảng, bị cô lập.

Trong Chiến tranh Chống Mỹ giúp Triều, tổng cộng Liên Xô đã cung cấp cho Trung Quốc trang bị quân sự cho 64 sư đoàn lục quân, 23 sư đoàn không quân, phần lớn trang bị này Trung Quốc phải trả nửa giá. Vì thế Trung Quốc nợ Liên Xô 3 tỷ Nhân dân tệ, tương đương 1,3 tỷ USD bấy giờ. Năm 1955, Liên Xô rút quân từ Lữ Thuận về nước, bàn giao cho Trung Quốc số trang bị Trung Quốc phải trả 980 triệu NDT. Hai khoản này chiếm hơn 60% tổng kim ngạch Trung Quốc nợ Liên Xô.

LIÊN XÔ MƯU TOAN DÙNG TRUNG QUỐC LÀM TIỀN TUYẾN CHỐNG MỸ

Năm 1960 Liên Xô yêu cầu Trung Quốc cho Liên Xô xây dựng căn cứ quân sự trên đất Trung Quốc để đối phó hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ (nhưng bị Trung Quốc cương quyết từ chối).

LIÊN XÔ MƯỢN DAO GIẾT NGƯỜI

Năm 1962, Trung Quốc và Ấn Độ nổ ra chiến tranh biên giới, Liên Xô ủng hộ Ấn Độ.

Năm 1979, Trung Quốc và Việt Nam nổ ra chiến tranh biên giới, Liên Xô ủng hộ Việt Nam và bố trí cả triệu quân dọc biên giới Trung Quốc-Liên Xô và Trung Quốc-Mông Cổ, chờ thời cơ xâm nhập Trung Quốc.

BIÊN GIỚI TRUNG QUỐC-LIÊN XÔ KHÔNG NGỪNG XẢY XUNG ĐỘT QUÂN SỰ, SUÝT NỮA NỔ RA CHIẾN TRANH HẠT NHÂN

Liên Xô dưới thời Brezhnev lãnh đạo thi hành chính sách đối ngoại bành trướng nhằm mở rộng phe XHCN, nhiều lần gây xung đột vũ trang với nước khác. Nhưng năm 1969 Liên Xô lại xung đột vũ trang nhiều lần với một nước cộng sản lớn là Trung Quốc.

1) Vụ đảo Trân Bảo. Ngày 2/3/1969 Liên Xô xuất quân chiếm đảo Trân Bảo. Trong các lần xung đột hồi tháng 3/1969, quân đội Trung Quốc chết 29, bị thương 68, mất tích 1 người; phía Liên Xô chết 58, bị thương 94. Tổng cộng vụ này phía Trung Quốc chết 71 người.

2) Vụ Tháp Tư Đề (vụ Khổng Long Trân). Ngày 10/6/1969 tại bờ sông Tháp Tư Đề (núi Paluck) vùng Tháp Thành ở Tân Cương phía tây biên giới Trung Quốc-Liên Xô, bộ đội biên phòng Liên Xô ngăn cản dân Trung Quốc chăn thả súc vật. Nữ nông dân Trung Quốc Khổng Long Trân bị phía Liên Xô bắn chết. Bộ đội biên phòng Trung Quốc đánh trả, xung đột leo thang.

3) Vụ đảo Bát Xá ở đông bắc tỉnh Hắc Long Giang. Ngày 8/7/1969 nổ ra xung đột giữa quân đội Liên Xô với thanh niên trí thức Trung Quốc ở địa phương này.

4) Vụ Thiết Liệt Khắc Đề ở biên giới phía tây: ngày 13/8/1969 Liên Xô huy động máy bay lên thẳng và xe tăng tập kích hai đội tuần tra của Trung Quốc, làm chết 28 người.

KÉO DÀI CUỘC ĐÀM PHÁN BUÔN BÁN DẦU MỎ TRUNG QUỐC-NGA

Dưới thời Putin lãnh đạo, năm 1999 phía Nga dùng cuộc đàm phán về dự án đường ống dẫn dầu để chơi trò làm thân với Trung Quốc, trò chơi này kéo dài 10 năm.

NGA GIẾT NGƯỜI TRUNG QUỐC, CƯỚP TÀI SẢN VÀ TRỤC XUẤT TIỂU THƯƠNG TRUNG QUỐC

Dưới thời Tổng thống Medvedev, năm 2009 tàu chiến Nga bắn chìm tàu buôn “Tân Tinh” của Trung Quốc, làm chết và mất tích 8 người Trung Quốc. Ngày 29/6/2009, Nga cưỡng chế đóng cửa chợ Cherkizov của thương nhân Trung Quốc tại Nga, cướp hàng hóa, khiến cho hàng vạn tiểu thương Trung Quốc khuynh gia bại sản, phía Nga bắt giam 166, trục xuất 80 tiểu thương Trung Quốc.

NGA CHỈ TRẢ LẠI TRUNG QUỐC MỘT NỬA ĐẢO HẮC HẠT TỬ.

Theo hiệp định ký năm 2004 giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc và Nga, phía Nga chỉ trả lại cho Trung Quốc một nửa đảo Hắc Hạt Tử, nhưng vì phía Trung Quốc không công bố tin này cho nên báo chí đưa tin Nga trả toàn bộ đảo Hắc Hạt Tử. --Còn tiếp

Theo NGHIÊN CỨU QUỐC TẾ 

Share on Google Plus
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Post a Comment